• English

Tin thị trường

Ngân hàng Việt Nam – Những dấu ấn của 10 tháng đầu năm 2017

NHNN linh hoạt trong điều hành nhưng kiên định trong mục tiêu duy trì ổn định thị trường tiền tệ, nhờ đó lạm phát đã được kiểm soát theo mục tiêu do Quốc Hội đề ra, vị thế VND được nâng cao, tỷ giá ổn định; tất cả các yếu tố đó là nền tảng cơ bản để ổn định mặt bằng lãi suất huy động VND để từng bước giảm lãi suất cho vay.

Với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, cùng sự quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong điều hành chính sách tiền tệ và sự nỗ lực của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong vấn đề giảm lãi suất, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh và triển khai tích cực công tác tái cơ cấu hệ thống ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu... đã góp phần vào tăng trưởng GDP quý III, cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam, đồng thời nâng triển vọng, uy tín hệ thống ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhìn lại 3/4 chặng đường đã qua của năm 2017, có thể thấy, bên cạnh những khó khăn, thách thức, ngành Ngân hàng cũng đón nhận không ít tin vui.Các đánh giá của quốc tế đều tích cực

Trong báo cáo công bố hôm 31/10, Moody's Investors Service đã nâng triển vọng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực” trong vòng 12-18 tháng tới, qua đó phản ánh kỳ vọng tăng trưởng kinh tế tươi sáng và bức tranh tích cực đối với các ngân hàng được xếp hạng tín nhiệm. Đây là lần thứ hai Moody’s nâng hạng cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong vòng 6 năm trở lại đây.

Việc Moody’s tiếp tục nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam là một tín hiệu tích cực phản ánh hiệu quả của việc Chính phủ thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cùng với công tác điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động của NHNN; đặc biệt là việc quyết liệt triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đã đem lại hiệu quả rõ rệt, giữ vững an toàn hệ thống và được các tổ chức quốc tế ghi nhận.

Báo cáo Môi trường kinh doanh 2018 (Doing Business Report 2018) của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây cũng cho thấy, chỉ số Tiếp cận tín dụng (Getting credit) của Việt Nam xếp thứ hạng 29 trên tổng số 190 quốc gia được khảo sát, đạt 75 điểm trên thang điểm 100, tăng 5 điểm so với năm 2017 và cao hơn trung bình của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (57/100 điểm). Như vậy, Chỉ số tiếp cận tín dụng đã đạt mục tiêu đặt ra trong Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020. So với năm 2017, chỉ số này đã tăng 5 điểm và cải thiện 3 bậc.

Tại phiên họp thường kỳ tháng 10 của Chính phủ, khi đánh giá về tình hình kinh tế xã hội, trước các tin vui về xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam tăng 14 bậc, và việc Moody’s nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Thủ tướng cũng nhìn nhận và đánh giá cao NHNN.

Những “trái ngọt” mà ngành Ngân hàng gặt hái được phải kể đến sự hỗ trợ của Chính phủ, vì nhờ đó mới có thể giúp tăng mức xếp hạng của một số ngân hàng. Việc nâng mức xếp hạng đối với Chính phủ Việt Nam, hiện đang ở mức tích cực, sẽ dẫn đến việc nâng mức xếp hạng của một loạt ngân hàng. Đồng thời, đó còn là kết quả từ những nỗ lực của ngành Ngân hàng trong giảm lãi suất, linh hoạt điều hành tỷ giá, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh và sự quyết liệt triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu...

Giảm lãi suất – tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế

Trong 6 tháng đầu năm 2017, mặt bằng lãi suất được giữ ổn định và giảm mặc dù có sức ép tăng. Từ ngày 10/7/2017, để hỗ trợ giảm chi phí hoạt động cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, trên cơ sở đánh giá thận trọng diễn biến lạm phát có chiều hướng tăng chậm và khả năng kiểm soát theo mục tiêu 4% của Quốc hội, đồng thời hoạt động ngân hàng có diễn biến tích cực, NHNN đã điều chỉnh giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành của NHNN, 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên, có văn bản chỉ đạo các TCTD tiếp tục chủ động triển khai các biện pháp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên.

Đánh giá cao động thái này của NHNN, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, việc giảm lãi suất chính sách sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là nắn dòng tiền ngân hàng vào các lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên phát triển, như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tại buổi kiểm tra tại NHNN về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng giao và các giải pháp góp phần bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2017, Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ nhận định: “Quyết định này của NHNN thể hiện trách nhiệm của ngành Ngân hàng đối với nền kinh tế và thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Chính phủ”.

Kết quả của việc thực thi đồng bộ các giải pháp nêu trên, các TCTD đã tích cực triển khai chủ trương của Chính phủ và NHNN, giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên. Bên cạnh đó, các TCTD cũng tích cực thực hiện giảm lãi suất cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh với lãi suất thấp hơn khoảng 0,5-1%/năm, giảm lãi suất một số chương trình cho vay trung dài hạn đối với lĩnh vực ưu tiên xuống còn khoảng 8%/năm, triển khai các gói tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn đa dạng với lãi suất ưu đãi cho các ngành thiết yếu trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội (như: cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch; cho vay ngành cấp nước sạch; đồng hành cùng doanh nghiệp xuất khẩu; hợp tác phát triển ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ); áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng tốt khoảng 4-5%/năm. Đồng thời, các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và NHNN.

VND thuộc nhóm ổn định nhất châu Á

Bên cạnh nỗ lực giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp, điều hành tỷ giá của NHNN cũng được các chuyên gia và tổ chức quốc tế đánh giá cao, qua đó tăng niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước với đồng Việt Nam và môi trường đầu tư.

Những tháng qua, thanh khoản thị trường tốt, hệ thống các TCTD mua ròng ngoại tệ từ khách hàng; các nhu cầu hợp lý, hợp pháp của tổ chức, cá nhân về ngoại tệ đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời; NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đến ngày 25/10/2017, tỷ giá trung tâm tăng 1,4%, tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,19% so với cuối năm 2016.

Hiện nay, thị trường ngoại tệ trong nước đã có bước phát triển đáng kể, do vậy, bên cạnh việc thực hiện giao dịch truyền thống là mua/bán ngoại tệ giao ngay, NHNN triển khai giao dịch kỳ hạn với các TCTD để bổ sung công cụ cho các thành viên trên thị trường. NHNN thực hiện mua ngoại tệ kỳ hạn, trên cơ sở cân nhắc diễn biến lãi suất, tỷ giá, sẽ hỗ trợ các TCTD chủ động hơn trong việc cân đối dòng tiền (bao gồm cả cân đối dòng tiền phục vụ tín dụng) và có thêm lựa chọn trong việc bán ngoại tệ cho NHNN, từ đó khuyến khích TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối.

Trên thị trường quốc tế, mặc dù USD có diễn biến tăng giá sau cuộc họp của Fed từ 20/9 đến nay, tuy nhiên nếu so với cuối năm 2016 thì tính đến ngày 6/10, USD thế giới đã giảm giá trên 8%; VND đang giảm giá với hầu hết đồng tiền các đối tác thương mại chính (-4,04% so với CNY, -3,52% so JPY, -10,18% so EUR, -5,13% so KRW, -5,83% so TWD, -5,49% so SGD và -6,52% so THB), do vậy, việc NHNN giảm tỷ giá mua là phù hợp với diễn biến trên thị trường quốc tế, đồng thời mức giảm được cân nhắc phù hợp với mặt bằng chung thị trưởng để vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.

Trong một đánh giá mới đây của hãng tin Bloomberg về mức độ ổn định tiền tệ của một số đồng tiền thuộc khu vực châu Á, Việt Nam đồng (VND) được nhận định là đồng tiền thuộc nhóm ổn định nhất ở châu Á, đánh giá này được đưa ra dựa trên những con số so sánh thuyết phục. Hãng tin Bloomberg đưa ra nhận định này trong công bố mới đây dựa trên phân tích về biến động của đồng tiền Việt Nam trong những tháng liên tiếp gần đây. Các chuyên gia trong nước thì cho rằng, sự ổn định sẽ còn được duy trì đến hết năm nhờ những yếu tố tích cực của nền kinh tế.

TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển kinh doanh, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia, nhận định, dòng vốn nước ngoài rút ra khỏi các nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan khá mạnh trong khi tại Việt Nam lại không phải chịu hiện tượng rút vốn ồ ạt của nước ngoài. Trái lại, Việt Nam lại thu hút được thêm đầu tư nước ngoài, kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán. Qua 9 tháng năm 2017, riêng đầu tư vào mua cổ phần và cổ phiếu đã lên tới 4,2 tỷ USD, cao gấp 3 lần năm 2016. Đây cũng là nhờ vào chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam rất ổn định.

Tổng giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam - ông Phạm Hồng Hải cũng nhận định, hiện VND là đồng tiền có tính ổn định nhất trong khu vực, nên HSBC cũng nhận thấy, không có áp lực gì lớn lên tỷ giá trong năm nay.

NHNN linh hoạt trong điều hành nhưng kiên định trong mục tiêu duy trì ổn định thị trường tiền tệ, nhờ đó lạm phát đã được kiểm soát theo mục tiêu do Quốc Hội đề ra, vị thế VND được nâng cao, tỷ giá ổn định; tất cả các yếu tố đó là nền tảng cơ bản để ổn định mặt bằng lãi suất huy động VND để từng bước giảm lãi suất cho vay.

Hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh

Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân và đảm bảo phù hợp với chủ trương của Chính phủ, tín dụng đối với nền kinh tế đã liên tục tăng ngay từ đầu năm và tăng đều qua các tháng.

Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), đến 24/10/2017, tổng dư nợ đối với nền kinh tế tăng 12,83% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm 2015 tăng 11,93%, năm 2016 tăng 12,45%). Tín dụng được tập trung vào sản xuất kinh doanh, cụ thể với các lĩnh vực ưu tiên: Dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đến cuối tháng 10/2017 tăng 19,0%, chiếm tỷ trọng 21% tổng dư nợ cho vay nền đối với kinh tế; Tín dụng cho lĩnh vực xuất khẩu đến cuối tháng 8/2017 tăng 8,14%; cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 25,12% so với năm 2016; với lĩnh vực công nghiệp ưu tiên phát triển tăng 18,90%; với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,49% và chiếm tỷ trọng 20,89% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Tăng trưởng tín dụng đã hỗ trợ tích cực về nguồn vốn cho GDP 9 tháng đầu năm tăng 6,41%, cao hơn nhiều so mức tăng 5,99% của 9 tháng đầu năm 2016. Vốn tín dụng đã đến với doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo đúng định hướng của Chính phủ.

Tại Hội thảo “Nâng cao hiệu quả kết nối ngân hàng – doanh nghiệp” diễn ra ngày 19/10 vừa qua, các chuyên gia đều đánh giá cao chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp là chương trình hành động cụ thể, chưa từng có tiền lệ đối với một cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Chương trình còn cho thấy tính chủ động, sáng tạo và sự tích cực thúc đẩy tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp từ phía NHNN, các NHTM.

Bên cạnh đó, giải quyết các thủ tục vay, xây dựng quy trình vay là một trong những vấn đề cải tiến hàng đầu của các ngân hàng hiện nay nhằm đẩy nhanh nguồn vốn ra nền kinh tế và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP và Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững. Trong quý 3/2017, NHNN đã ban hành Quyết định công bố danh mục thủ tục hành chính thực hiện và không thực hiện qua dịch vụ bưu chính công ích thuộc thẩm quyền giải quyết của NHNN. Theo quyết định công bố, trừ 8 thủ tục hành chính thực hiện qua mạng internet hoặc phải nộp trực tiếp, toàn bộ 326 thủ tục hành chính còn lại đều có thể nộp hồ sơ, nhận kết quả qua dịch vụ bưu chính hoặc trực tiếp tùy thuộc nhu cầu của tổ chức, công dân. NHNN cũng đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện đề án “Đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước” tại NHNN, phấn đấu giảm tối thiểu 20% số báo cáo định kỳ, bãi bỏ các báo cáo không phù hợp với yêu cầu quản lý, lược bỏ những chỉ tiêu, nội dung báo cáo trùng lắp, không cần thiết.

Theo công bố kết quả xác định chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) của Bộ Nội vụ trong 4 năm (2013 - 2016), trong số 19 bộ ngành, NHNN luôn là đơn vị đứng vị trí hàng đầu.

Không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, các chương trình tín dụng trọng điểm khác cũng được ngành Ngân hàng triển khai tích cực, tháo gỡ dần những vướng mắc cho bà con ngư dân, nông dân vay vốn như: Cho vay hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP, cho vay nông nghiệp nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ cũng đạt những kết quả bước đầu. Ngoài ra, vốn ngân hàng còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển xã hội, tạo xung lực cho giảm nghèo bền vững

Những năm qua, mỗi khi đồng bào trên khắp các vùng miền bị thiệt hại nặng nề do thiên tai, ngành Ngân hàng cũng luôn chủ động có những hỗ trợ thiết thực, giúp bà con khắc phục hậu quả. Vừa qua, để hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn, khôi phục lại sản xuất, kinh doanh, khắc phục hậu quả do bão lũ tháng 10/2017 và cơn bão số 12 gây ra, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng đã ban hành các văn yêu cầu Chủ tịch HĐQT/HĐTV, Tổng Giám đốc các TCTD và Giám đốc NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố chỉ đạo các chi nhánh, phòng giao dịch chủ động rà soát, tổng hợp thiệt hại của khách hàng đang vay vốn để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất sau mưa lũ...

Quyết liệt triển khai tái cơ cấu và xử lý nợ xấu

Một trong những lý do để Moody’s nâng triển vọng hệ thống ngân hàng Việt Nam còn là sự quyết liệt của ngành Ngân hàng trong triển khai Đề án tài cơ cấu và xử lý nợ xấu.

Ngày 21/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42). Cùng với đó, ngày 19/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” (Đề án 1058). Ngay sau khi Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ngày 20/7/2017, NHNN đã ban hành Chỉ thị 06/CT-NHNN để triển khai thực hiện trong toàn ngành Ngân hàng. Cũng trong ngày 20/7/2017, NHNN đã có Quyết định 1533/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án 1058. Ngày 21/7/2017, NHNN đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để triển khai Nghị quyết 42 và Quyết định 1058 trong toàn ngành Ngân hàng. Đồng thời, NHNN đã có các văn bản hướng dẫn các TCTD (theo từng nhóm, loại hình TCTD) xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020. NHNN đã khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của Đề án và chỉ đạo toàn ngành Ngân hàng triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp thuộc trách nhiệm của ngành Ngân hàng.

Có thể thấy, sau khi có Nghị quyết 42, công tác thu hồi, xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) cũng thuận lợi hơn khi nhiều rào cản trong xử lý nợ xấu được dỡ bỏ.

Theo ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc VAMC, từ tháng 8/2017 đến nay, sau khi triển khai việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, VAMC thu hồi được khoảng 5.000 tỷ đồng, đưa tổng số nợ thu hồi từ đầu năm đến nay khoảng 16.000 tỷ đồng.

Tính từ khi thành lập vào năm 2013 đến nay, tổng số nợ xấu mà VAMC đã xử lý đạt 66.000 tỷ đồng, tương đương 3 tỷ USD. Dự kiến từ nay đến cuối năm, VAMC sẽ mua thêm ít nhất 2.000 tỷ đồng nợ xấu của các TCTD theo giá thị trường. Tổng Giám đốc VAMC cho biết, sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, việc thu giữ tài sản của VAMC tốt hơn rất nhiều. Trước đây TCTD cũng như VAMC thu giữ trên cơ sở Nghị định 163/2006/N Đ-CP về giao dịch bảo đảm, tuy nhiên tốc độ xử lý vẫn còn chưa được như mong muốn do quyền của chủ nợ vẫn yếu thế. Còn Nghị quyết 42 đã bảo vệ chủ nợ tốt hơn và một lần nữa khẳng định quyền thu giữ tài sản đảm bảo.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với những nỗ lực và kết quả tích cực nói trên sẽ là bước đệm vững chắc để ngành Ngân hàng hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2017 và các năm tiếp theo, góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Nguồn :


Đăng ký nhận tin
KienlongBank