Tính đến thời điểm 31/12/2016, nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng chỉ còn chiếm 2,52% tổng dư nợ...
“Rất mong Quốc hội xem xét thông qua nghị quyết này. Vì đây là một cơ sở pháp lý rất quan trọng để Chính phủ có thể có khuôn khổ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu và tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng phát biểu trước Quốc hội sáng 7/6, trong phiên thảo luận về dự thảo nghị quyết xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Tại phiên thảo luận này, nhiều đại biều Quốc hội tỏ ra băn khoăn về quy định cụ thể của nghị quyết, từ phạm vi điều chỉnh cho đến các chế tài, trong đó, có việc nghị quyết cần được ban hành thế nào để không dẫn đến cách hiểu là chỉ có ngân hàng được hưởng lợi và trách nhiệm gây ra nợ xấu không được xử lý đến nơi đến chốn.
Một số ý kiến cho rằng dù Chính phủ đã giải trình nhưng lại chưa bổ sung nguyên tắc không dùng ngân sách để xử lý nợ xấu vào dự thảo nghị quyết. Không dùng cơ chế thuế, phí để giải quyết nợ xấu cũng là vấn đề được đại biểu lưu ý.
Cho rằng nhiều ý kiến của đại biểu là xác đáng, Thống đốc Lê Minh Hưng đã báo cáo Quốc hội thêm một số vấn đề, chủ yếu liên quan đến dự thảo nghị quyết xử lý nợ xấu nói trên.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm gần 64% nợ xấu tại VAMC
Theo Thống đốc, về số liệu nợ xấu, tại thời điểm tháng 9/2012, khi báo cáo Quốc hội thì tỷ lệ nợ xấu ước tính một cách thận trọng là chiếm 17,21% tổng dư nợ và cho vay nền kinh tế. Nếu đánh giá một cách toàn diện và thực chất qua công tác thanh tra thì con số nợ xấu ở thời điểm đó có thể cao hơn.
Còn nếu tính đến thời điểm 31/12/2016, nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng là trên 150.000 tỷ, chỉ còn chiếm 2,52% tổng dư nợ.
Tổng nợ xấu mà Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã mua nhưng chưa xử lý được là trên 195.000 tỷ, hiện chiếm 3,29% tổng dư nợ.
Nợ xấu nội bảng và nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được hiện nay là trên 345.000 tỷ, chiếm 5,8% tổng dư nợ.
Thống đốc phân tích, nợ có nguy cơ cao trở thành nợ xấu tức là những khoản nợ vào thời điểm khó khăn của giai đoạn 2011-2012-2013 theo nghị quyết của Quốc hội, và Chính phủ đã phải cơ cấu lại nợ cho các tổ chức kinh tế và các đối tượng vay vốn, để có cơ hội tiếp tục vay vốn và thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Nếu tính những khoản này và cả những khoản này mà về bản chất Ngân hàng Nhà nước đánh giá rất thận trọng là nếu đến hạn thì cũng sẽ thành nợ xấu, tổng nợ xấu và dư nợ hiện nay là 10,08% dư nợ và tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế.
Cụ thể hơn, ông Hưng cho biết kết quả phân loại, trong số tổng nợ xấu nội bảng và nợ xấu bán cho VAMC thì nợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng gần 64%; nợ của các doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 6,3%; nợ của hộ kinh doanh và cá nhân chiếm khoảng trên 21%; nợ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,8% tổng dư nợ.
“Chúng tôi đã có đầy đủ các số liệu báo cáo, và chúng tôi cũng sẵn sàng báo cáo chi tiết đến các vị đại biểu Quốc hội”, Thống đốc nói.
Gần 200 cán bộ ngân hàng bị khởi tố từ 2011 - 2016
Về nguyên nhân chủ quan dẫn đến nợ xấu, Thống đốc nhìn nhận, quy trình tín dụng của một số tổ chức chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, tạo kẽ hở để cán bộ ngân hàng và khách hàng lợi dụng.
Ở một số tổ chức tín dụng, năng lực quản trị rủi ro còn hạn chế. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa tốt, tính tuân thủ các quy chế chưa cao, các chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ cận tín dụng ngân hàng chưa được quan tâm, cho nên dẫn đến những rủi ro trong việc cho vay.
Ngoài ra, còn là rủi ro về đạo đức của cán bộ ngân hàng, một bộ phận cán bộ ngân hàng thoái hóa biến chất và lợi dụng chức vụ quyền hạn, câu kết với khách hàng để cố ý làm trái các quy định và đe dọa đến hoạt động và tính lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng.
Và các hành vi vi phạm pháp luật này trong thời gian qua đều đã, đang, sẽ được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
“Chúng tôi nhìn nhận một cách rất thẳng thắn, công tác thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước tuy đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết quả, nhưng vẫn còn hạn chế và chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực trình độ của một bộ phận cán bộ thanh tra ngân hàng còn bất cập, còn một số ít trường hợp cán bộ thanh tra giám sát của ngân hàng còn để xảy ra vi phạm pháp luật”, Thống đốc nói.
Về vấn đề xử lý trách nhiệm nợ xấu - nội dung được nhiều đại biểu đề cập - Thống đốc nhấn mạnh, trong dự thảo nghị quyết thì Chính phủ đã bàn kỹ, không có một quy định nào có thể gây ra hay tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng, các tổ chức, cá nhân liên quan có thể trục lợi.
Ông giải trình, thời gian qua, cơ quan thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành xử lý rất nhiều vụ việc vi phạm, đồng thời chuyển và chỉ đạo các tổ chức tín dụng cũng như trực tiếp Ngân hàng Nhà nước đã chuyển các hồ sơ có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra.
Từ năm 2011 đến năm 2016, theo thống kê của Bộ Công an, các cơ quan điều tra của Bộ Công an, không bao gồm công an các địa phương, đã phát hiện và khởi tố điều tra 95 vụ án kinh tế xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng và đã khởi tố bị can khoảng gần 200 cán bộ ngân hàng.
Chỉ tính riêng một số vụ án lớn gần đây trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố điều tra, truy tố và xét xử khoảng 128 cán bộ ngân hàng trong đó có nhiều đối tượng là chủ tịch tội đồng quản trị, tổng giám đốc, thành viên hội đồng quản trị và phó tổng giám đốc, giám đốc chi nhánh của các tổ chức tín dụng và có nhiều mức án đã được kết án rất nghiêm khắc kể cả án tử hình, chung thân và trên 20 năm tù.
Liên quan đến nguyên tắc xử lý nợ xấu, Thống đốc cho biết, sẽ tiếp thu ý kiến đại biểu, bổ sung trong dự thảo nghị quyết là không sử dụng ngân sách Nhà nước, bổ sung nguyên tắc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật và làm trái quy định pháp luật gây ra nợ xấu và tổn thất cho hoạt động của ngân hàng.
Kết thúc phiên thảo luận, gói lại ý kiến đại biểu, Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển lưu ý: các đại biểu nhấn mạnh không dùng ngân sách Nhà nước để xử lý nợ xấu, không dùng cơ chế thuế, phí để xử lý nợ xấu. “Tuy nhiên, chúng ta cho phép các ngân hàng trích tăng dự phòng rủi ro có nghĩa là giảm thu ngân sách Nhà nước”, ông nói.
NGUYỄN LÊ/ Economic