Nội dung giám sát ngân hàng được quy định bao gồm: Thu thập, tổng hợp và xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng giám sát ngân hàng theo yêu cầu; xem xét, theo dõi tình hình chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan; việc thực hiện kết luận thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng của đối tượng giám sát ngân hàng;
Đồng thời, phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; thực hiện xếp hạng các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định.
Việc giám sát cũng nhằm phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực, rủi ro gây mất an toàn hoạt động, các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng. Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro, vi phạm pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh nội dung giám sát vĩ mô, thông tư quy định nội dung giám sát an toàn vĩ mô đối với nhóm và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về mức độ lành mạnh tài chính; đánh giá hoạt động liên ngân hàng; đánh giá tình hình sở hữu, đầu tư; nhận diện, đánh giá thực trạng, xu hướng, mức độ rủi ro và tác động có khả năng xảy ra đối với nhóm và toàn bộ hệ thống…
Ngoài ra, thông tư cũng quy định các biện pháp xử lý trong giám sát ngân hàng bao gồm: Khuyến nghị, cảnh báo; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; kiến nghị cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý giám sát ngân hàng khác theo quy định của pháp luật.
Đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng thực hiện khuyến nghị, cảnh báo rủi ro tiềm ẩn đối với đối tượng giám sát ngân hàng, khi kết quả giám sát thể hiện dưới hình thức chỉ tiêu định lượng của đối tượng giám sát ngân hàng vượt ngưỡng cảnh báo, hoặc căn cứ vào các thông tin định tính phản ánh các rủi ro tiềm ẩn của đối tượng giám sát ngân hàng từ kết quả giám sát kết hợp với kết luận thanh tra, kết quả kiểm toán độc lập, kết quả kiểm toán nội bộ, thông tin từ các cơ quan quản lý nhà nước khác. Đơn vị giám sát cũng có thể khuyến nghị, cảnh báo khi có yêu cầu của Thống đốc NHNN xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước.
Trường hợp đối tượng giám sát ngân hàng tiếp tục tiềm ẩn nhiều rủi ro, có nguy cơ gây mất an toàn trong hoạt động hoặc dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng sau khi thực hiện kế hoạch khắc phục, đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng thực hiện kiến nghị cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật.